Ô nhiễm nước do
sản xuất công nghiệp đóng một phần lớn cho sự ô nhiễm chung, bên cạnh là ô
nhiễm từ nguồn nước thải sinh hoạt.
Cụ thể như trong các
ngành công nghiệp đặc thù như dệt may, giấy và bột giấy, nước thải thường có độ
pH trung bình từ 9 – 11, chỉ số ôxy sinh hoá (BOD), ôxy hoá học (COD) lên đến
700mg/1 và 2.500mg/1, hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn
cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa Xyanua (CN–) vượt đến
84 lần, H2S vượt 4.2 lần, hàm lượng NH3+ vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã
gây ô nhiễm cho các nguồn nước bề mặt trong vùng dân cư mà chưa tính đến các
ngành công nghiệp có tác động nặng nề hơn đối với môi trường (như các ngành xi
mạ, thép, sản xuất thức ăn, nước uống,…) và nước thải sinh hoạt.
Xử lý nước thải đang là vấn đề chung của toàn xã hội nói chung, của các ngành công nghiệp nói riêng. Ngày nay các cơ quan thuộc Sở Tài Nguyên Môi Trường đang thực hiện gắt gao các phương pháp nhằm ngăn chặn tối đa các chất thải do sản xuất gây ra.
Xử lý nước thải đang là vấn đề chung của toàn xã hội nói chung, của các ngành công nghiệp nói riêng. Ngày nay các cơ quan thuộc Sở Tài Nguyên Môi Trường đang thực hiện gắt gao các phương pháp nhằm ngăn chặn tối đa các chất thải do sản xuất gây ra.
Nước thải và quy trình xử lý nước thải |
Quy trình xử lý nước thải
§
Nước
thải từ các nguồn của nhà máy được dẫn vào bể tiếp nhận, có đặt thiết bị lược
rác thô. Phần bùn thô được tách ra khỏi nước thải.
§
Sau
khi chảy qua bể tiếp nhận, nước thải được cho chảy qua bể tách mỡ (đối với các hệ thống có yêu
cầu). Nước thải được bơm chìm nước thải bơm lên thiết bị lược rác tinh tách các
chất thải rắn có kích thước nhỏ trước khi tự chảy xuống bể điều hòa. Phần bùn
tinh cũng được tách ra.
§
Bể điều
hòa có nhiệm vụ điều hòa lưu lượng và nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải
trước khi đưa vào các công trình đơn vị phía sau. Thiết bị thổi khí được cấp
vào bể nhằm xáo trộn để tránh hiện tượng kỵ khí.
§
Nước
thải từ bể điều hòa được bơm lên bể keo tụ tạo bông, đồng thời tiến hành châm
PAC (chất trợ keo tụ) và Polymer (chất trợ tạo bông lắng) nhằm thực hiện quá
trình keo tụ - tạo bông: liên kết và kích
thích liên kết các chất keo trong nước thải để tạo ra các phần tử lớn hơn từ
các phần tử nhỏ mà các thiết bị lọc thô và lọc tinh không xử lý được. Các phần
tử lớn hơn sau quá trình keo tụ, tạo bông trong nước thải sẽ được lắng và loại
thải thành bùn.
§
Sau đó
nước thải tự chảy qua hệ thống tuyển nổi, tại đây hỗn hợp khí và nước thải được
hòa trộn tạo thành các bọt mịn dưới áp suất khí quyển, các bọt khí tách ra khỏi
nước đồng thời kéo theo các váng dầu nổi và một số cặn lơ lửng. Lượng dầu mỡ và
cặn lơ lửng được tách khỏi nước thải nhờ thiết bị gạt tự động được dẫn về bể
chứa bùn. Bể tuyển nổi kết hợp quá trình tuyển nổi và keo tụ đạt hiệu quả loại
bỏ cao. Đồng thời, hiệu quả loại bỏ photpho của toàn hệ thống cũng được cải
thiện nhờ công trình này.
§
Nước
thải được dẫn tiếp qua bể xử lý kỵ khí. Nước thải có nồng độ ô nhiễm cao sẽ
tiếp xúc với lớp bùn kỵ khí và toàn bộ các quá trình sinh hóa sẽ diễn ra trong
lớp bùn này, bao gồm quá trình thủy phân, axit hóa, acetate hóa, tạo thành khí
methane, và các sản phẩm cuối cùng khác.
§
Nước
thải sau khi ra khỏi bể bùn hoạt tính dính bám chảy tràn qua bể lắng. Tại đây,
quá trình lắng tách pha xảy và giữ lại phần bùn (vi sinh vật). Bùn sau khi lắng
được bơm tuần hoàn về bể kỵ khí và thiếu khí nhằm duy trì nồng độ vi sinh vật
trong bể. Phần bùn dư được bơm về bể chứa bùn. Toàn bộ lượng bùn đã qua xử lý
được lưu trữ (ép bùn) và đơn vị có chức năng thu gom xử lý.
Xử lý hóa chất trong xử lý nước
thải
Hầu hết các quy
trình xử lý nước thải thông dụng đều sử dụng các bước trên, tùy theo đặc điểm
nước thải mà một hay nhiều phần được bỏ đi. Đối với các quy trình đặc biệt khác
nằm ngoài tính bao quát của quy trình trên, cũng đều tuân theo một hay nhiều hệ
thống xử lý chính sau:
§
Xử lý
cơ học: loại bỏ rác, cặn,…qua các bộ lọc, điều hòa lưu lượng và nồng độ nước
thải.
§
Xử lý
sinh học (bùn hoạt tính) kết hợp quá trình khử Nitơ (Nitrification and
Denitrification): loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ trong nước thải.
§
Xử lý
bùn cặn: giảm độ ẩm của bùn trước khi thải bỏ theo quy định.
Vậy, trong hệ thống xử
lý nước thải, ngoài các khoản đầu tư cố định cho các phẩn khác (cơ học, sinh
học, bùn cặn,…), hệ thống xử lý bằng hóa chất là khoảng đầu tư liên tục. Do
tính đặc thù của hóa chất nên các sản phẩm hóa chất thường có giá thành cao khi
so sánh tương đối với phần lợi về mặt kinh tế của hệ thống xử lý nước thải. Vì
thế nên việc châm hóa chất keo tụ - tạo bông (khâu đóng vai trò quan trọng
trong việc xử lý các hạt lơ lửng cỡ nhỏ hơn 10–4mm) với lưu lượng chính xác
không chỉ giúp hoàn thành tốt nhiệm vụ của quá trình lắng lại các hạt cỡ nhỏ,
mà còn giúp tiết kiệm các chi phí liên quan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét